| Hotline: 0983.970.780

Thứ tư 30/04/2025 - 09:34

Tiếng Việt - Văn Việt - Người Việt

Ba tôi nhận lệnh mở đường Trường Sơn

Thứ Tư 30/04/2025 - 09:31

Ba tôi, Thiếu tướng Võ Bẩm, là tư lệnh đầu tiên của lực lượng mở đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh huyền thoại.  

'Bác Hồ nghe đồng chí Võ Bẩm báo cáo tiến độ mở đường Trường Sơn năm 1959'. Tranh sơn dầu của họa sĩ Đức Dụ.

"Bác Hồ nghe đồng chí Võ Bẩm báo cáo tiến độ mở đường Trường Sơn năm 1959". Tranh sơn dầu của họa sĩ Đức Dụ.

Cha tôi, Thiếu tướng Võ Bẩm (1915-2008) như nhiều người đã biết, ông từng giữ chức Đoàn trưởng kiêm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Đoàn 559. Tháng 5/1959, ba tôi được giao nhiệm vụ khảo sát mở đường Trường Sơn để đưa lực lượng miền Bắc hỗ trợ miền Nam kháng chiến chống Mỹ. Vì vậy, đường Trường Sơn có tên gọi khác là đường 559, hoặc đường Hồ Chí Minh.  

Phần lớn, cộng đồng nhắc đến thiếu tướng Võ Bẩm với tư cách tư lệnh đầu tiên của đường Trường Sơn. Những cống hiến cách mạng của Thiếu tướng Võ Bẩm, đã được sử sách ghi lại. Còn tôi, muốn nói về Thiếu tướng Võ Bẩm của đời thường, với góc nhìn một đứa con về người cha đáng kính của mình.                                 

Mọi người ai cũng nhớ ơn cha mẹ và có thể tự hào về cha mẹ, nhưng với tôi, ba tôi còn là thần tượng của cuộc đời mình. Tôi trở thành “fan” của ông bởi những gì tôi biết và những gì mọi người kể về ông.

Ông không phải nghệ sĩ tài ba hay danh thủ bóng đá kiệt xuất, nhưng ông là một tráng sĩ oai hùng. Ở tuổi thanh niên, ông cao 169 cm và nặng khoảng 70 kg. Ông có khuôn mặt chữ điền, mày rậm, mắt sáng, râu quai nón, người vạm vỡ cân đối trong bộ quân phục vệ quốc đoàn oai phong. Ở thế hệ ông, nam giới trung bình chỉ cao 160 cm và chỉ nặng 50 kg. Bộ đội chỉ cao hơn 155 cm là được tuyển rồi.

Ba tôi cao to và mạnh mẽ. Ông kể chuyện, khi đi làm rể (tức là trước khi cưới chàng rể phải về làm cho nhà gái mấy ngày), bị các cô bên nhà gái thách, ông đã ăn hết cả một mâm cơm thợ gặt. Nhưng ông cũng khiêm tốn: “Tao vẫn không bằng ông Cả Đong, ổng ăn hết một vành nong chè luôn”. Ở quê tôi người ta dùng nong (giống cái nia, có đường kính cỡ một sải tay) để phơi thóc lúa, khoai sắn, đậu, bắp... Ăn hết số bát chè nếp ngọt lừ xếp giáp vòng một vành nong thì thật là khủng. Người ta đồn rằng ở cái xứ “chó ăn đá, gà ăn muối”, do ăn toàn khoai, bắp mà ruột người xứ Quảng dài hơn nơi khác cả thước nên ăn rất khỏe. Các cụ cùng thời ba tôi cũng thường kể với tôi rằng, ông đã từng nắm sừng, vít cổ con trâu đực để người ta thiến. Khi đọc câu “tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu”, tôi thường nhớ tới chuyện này.

Chính tôi cũng đã từng thử sức với ông. Một hôm thấy tôi tập tạ đôi ở hiên nhà, ông đứng nhìn rồi vừa mỉm cười vừa bảo: “Mày có giỏi thử bẻ gập cánh tay tao xem sao!”. Nói rồi ông dũi thẳng cánh tay trước mặt tôi. Tôi đặt ngửa cánh tay ông lên vai rồi đưa hai tay đặt lên khuỷu tay ông và lấy hết sức kéo xuống, cố sức mấy lần cánh tay ông vẫn thẳng đơ. “Rồi! đến lượt tao, mày dũi thẳng tay ra đi!” Tôi nắm chặt bàn tay, gồng mình dũi thẳng cánh tay về phía ông. Ba tôi chỉ dùng bàn tay phải to lớn của mình nắm bàn tay đang lên gân cốt của tôi rồi vừa bóp vừa gập cánh tay tôi lại. “Thanh niên gì mà yếu nhớt, thôi, ráng tập nữa đi!”.

Không những mạnh như lực sĩ, ông còn có võ. Trong hồi ký, ông kể hồi nhỏ không được đến trường, mãi đến khi làm Phân khu trưởng Phân khu 15 Tây Nguyên (năm 1949) thì ông mới được “cắp sách đi học” để được chứng nhận hết lớp 3. Sau đó, khi ở Đoàn 559, ông mới được giáo viên văn hóa của đơn vị “dạy kèm” đến lớp 6.

Thiếu tướng Võ Bẩm tại Hà Nội năm 1967.

Thiếu tướng Võ Bẩm tại Hà Nội năm 1967.

Đọc hồi ký của Thiếu tướng Võ Bẩm, mọi người dễ lầm là do gia đình nghèo khó nên ông thất học. Sự thực không phải vì gia đình nghèo khó, mà là từ nhỏ ba tôi không chịu đi học chữ của Tây. Ông chỉ muốn học võ để đánh Tây. Chiều con, bà nội tôi đã mời thầy về dạy võ, nhưng thầy sức yếu bị ông đánh ngã hoài, nên thầy không dạy ông nữa. Ông đã lén lấy tiền của bà nội tôi để trốn vào Bình Định học võ. Tuy nhiên tôi chưa bao giờ nghe ông kể đã đánh thằng Tây nào, kể cả thời gian tù đày, mà chỉ nghe kể, ông đã từng đánh ông anh họ (tôi gọi người đó bằng bác) vì ông ấy làm mật thám cho Pháp... 

Tôi thường nhớ hình ảnh ba tôi mặc quân phục đi ngựa. Tôi vẫn còn nhớ tên các con ngựa lần lượt được nuôi ở nhà là con Tía, con Hồng, con Bạch. Ông đã cho tôi ngồi trước bụng và đưa tôi về thăm bà ngoại trên lưng con ngựa Bạch, lúc đó tôi đã 5 tuổi nên còn nhớ hình ảnh rừng cây mắm và dừa nước bên Bờ Đắp với dòng sông Kinh lấp loáng trong nắng sớm khi chúng tôi đi qua.

Nhìn lại cuộc đời hoạt động của ông, tôi thấu tỏ hơn việc ngày xưa đi làm cách mạng không chỉ là cá nhân tự nguyện dấn thân “gươm kề tận cổ súng kề tai, là thân sống chỉ coi còn một nửa”, mà cả gia đình và tài sản cũng phải chịu hy sinh.

Đọc hồi ký của ba, tôi mới biết tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam ở Quảng Ngãi đã “chết đi sống lại” nhiều lần. Tỉnh bộ Hội Thanh niên cách mạng Việt Nam (Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội) với các chi bộ “dự bị Cộng sản” do Trương Quang Trọng làm Bí thư Tỉnh bộ bị xóa sổ tháng 10/1929, Bí thư Tỉnh bộ và nhiều cán bộ nòng cốt bị bắt và bị tù. Trong tù, Bí thư Trương Quang Trọng và nhiều người không chịu được đòn roi dã man đã bỏ mạng, trong đó có anh ruột của ba tôi là bác Võ Khoa.

Đến tháng 3/1930, một số thành viên còn lại của Hội đã thành lập chi bộ chính thức đầu tiên và Tỉnh ủy đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương ở Quảng Ngãi. Tỉnh ủy đầu tiên đã làm nên phong trào cách mạng 1930 - 1931.  Nhưng rồi tổ chức này cũng bị xóa sổ, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Nghiêm bị tử hình, các tổ chức đảng và tổ chức quần chúng bị giải tán. Đến đầu năm 1934, những người cộng sản trung kiên mới móc nối lập lại Tỉnh ủy lâm thời do Phạm Xuân Hòa làm Bí thư, nhưng đến tháng 5/1935, Bí thư và hầu hết Tỉnh ủy viên bị bắt trong vụ án “tái tổ cộng sản”, trong đó ba tôi bị tòa án Nam Triều kết án 12 năm khổ sai và tịch thu toàn bộ gia sản.

Từ đó đến Cách mạng Tháng Tám, Tỉnh ủy Quảng Ngãi còn bốn lần bị xóa sổ rồi “tái tổ” nữa (vào các năm 1936, 1940, 1943, 1944). Lần cuối là tháng 12/1944, Tỉnh ủy lâm thời do đồng chí Trương Quang Giao làm Bí thư, đã lãnh đạo khởi nghĩa Ba Tơ và cách mạng Tháng Tám thành công. Trước Cách mạng Tháng Tám, những người dấn thân hoạt động cách mạng đều sống dựa vào gia đình, ăn cơm nhà làm việc nước.

Sau khởi nghĩa Ba Tơ, ba tôi nhập ngũ và được điều vào Nam Trung bộ. Ông đưa cả ngựa và anh Hai Y - người chăn ngựa đi cùng. Thời kỳ ấy có lẽ ngựa là phương tiện đi lại như ô tô cá nhân bây giờ. Tuy nhiên muốn đi ngựa phải nuôi ngựa và có người chăn dắt, cắt cỏ ngựa. Một thời gian sau, anh Hai Y bị sốt rét, da vàng bủng phải giải ngũ về quê. Trong kháng chiến chống Mỹ, anh Hai Y bám trụ cùng bà con hàng xóm giữ vững khu căn cứ kháng chiến của địa phương. 

Tôi thấy có lỗi với anh Hai Y, vì không sớm biết và giúp anh làm giấy chứng nhận về mấy năm ở bộ đội thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp. Nhưng quan trọng là tôi không biết anh Hai Y có nhập ngũ chính thức hay vẫn chỉ ở vai trò người giúp việc cho ba tôi. Trong chiến tranh, do điều kiện làm giấy tờ khó khăn hoặc thất lạc giấy tờ, một số trường hợp là du kích ở quê tôi có những thiệt thòi trong việc hưởng chế độ chính sách ưu đãi.

Ông bà nội tôi thuộc loại khá giả, ruộng vườn vài chục mẫu, nhưng qua hai án tù của ba tôi và bác Võ Khoa, rồi mấy lần thuốc thang cho ba tôi và bác Võ Khoa, mà trở nên suy kiệt. Ba tôi mạnh nhưng không khỏe, mỗi lần lâm bệnh nặng lại rút về “căn cứ địa” gia đình. Lần thứ nhất là vào cuối năm 1939, ở nhà đày Buôn Ma Thuột, ông bị đau đầu và lưng do chấn thương, bị sưng lá lách do sốt rét phải nhờ gia đình lo lót để được tha trước hạn tù và mời bác sĩ từ Quảng Nam vào trị bệnh. Lần đau bệnh “thập tử nhất sinh” thứ hai là khi đang bị đày ở căn cứ An trí Ba Tơ, ba tôi bị bệnh thương hàn rất nặng, phải xin về nhà. Chính ba tôi thú nhận trong hồi ký “mẹ và vợ tôi lại phải bán đi một ít ruộng, lấy tiền lo lót cho xong việc”.

Lần thứ ba là cuối năm 1947, đang làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 79 ở Phú Yên, ba tôi bị sốt rét nặng, sưng lá lách. Con ngựa mà ông mang từ nhà lúc nhập ngũ, được anh Thụy (chiến sĩ cần vụ) dắt bộ, đưa ông đêm đi ngày nghỉ suốt một tuần từ Củng Sơn ra Bồng Sơn, rồi lên tàu lửa về Quảng Ngãi. Lần đó ông được nghỉ dưỡng bệnh ở nhà, do mẹ và vợ chăm sóc 3 tháng.

Gia đình không chỉ là “cơ sở chữa bệnh”, trong quá trình hoạt động ba tôi còn có hai lần lấy nhà riêng làm căn cứ xuất phát cho những nhiệm vụ trọng đại.

Lần thứ nhất là tháng 5/1950. Khi được giao nhiệm vụ mở đường vượt biển qua Hải Nam (Trung Quốc) xin viện trợ, ông đã lấy nhà mình ở Tịnh Khê, Quảng Ngãi làm địa điểm chỉ huy, huấn luyện và chuẩn bị cho chuyến đi. Sau mấy tháng đóng thuyền, tuyển người, học tiếng Trung… đầu tháng 8/1950, đoàn công tác lên đường vượt biển bằng thuyền nhỏ 5 tấn. Chuyến đi sáu thuyền, có ba thuyền bị địch chặn bắt, ba thuyền vượt được đến Hải Nam. Lúc đó tôi đã 7 tuổi, nên đến nay vẫn còn nhớ tên mấy chú bộ đội trong đoàn thường hay chơi với tôi, như chú Đẩu, chú Đạt. 

Lần thứ hai, năm 1959. Khi nhận nhiệm vụ mở đường Trường Sơn với sứ mệnh “vận tải quân sự đặc biệt”, ba tôi cũng lấy nhà riêng ở 25 Phan Đình Phùng, Hà Nội làm điểm tập hợp lực lượng. Khoảng chục người tổ chức ăn ngủ và làm việc ngay trong nhà tôi. Thời gian này tôi học ở Trường Học sinh miền Nam số 27, nghỉ hè được về nhà. Tôi nhớ những cán bộ đầu tiên của Đoàn 559 và thường gần gũi nói chuyện với chú Hào (anh nuôi), chú Lệ (cần vụ). Tôi đã gặp nhiều người đến nhà, nói là muốn gặp ba tôi để xin trở về Nam. Tôi còn đọc trộm thư của nhiều người gởi cho ba tôi, mà ông xem xong để trong ngăn kéo bàn làm việc. Tất cả đều với tâm huyết được về Nam chiến đấu giải phóng quê hương.

Ba tôi, Thiếu tướng Võ Bẩm, là một trí thức đa nghệ có “bằng” lớp 6 bổ túc văn hóa. Hồi nhỏ, tôi vẫn khoe mẽ với lũ bạn “chẳng bố thằng nào bằng bố tao” rồi kể ra nào là ông ấy có võ, giỏi nấu ăn, nào là  biết tiêm thuốc, hớt tóc, lái xe, biết cưỡi ngựa và bắn súng …Hồi nhỏ, tôi không biết ba tôi học đến lớp mấy, chỉ nghĩ ông là người có học, bởi những điều ông dạy bảo và phong cách tử tế của ông. Tính ba tôi quyết đoán, nhưng tôi chưa bao giờ nghe ông nói tục chửi thề. Ông sống chân tình, vui vẻ được mọi người xung quanh quý mến nể phục. Tôi nhớ khi còn ở Hà Nội, có một chú đến thăm ba tôi, lúc về tự nhiên chú ấy nói thầm vào tai tôi: “Người như ba cháu, làm đày tớ cho ổng, cũng sướng”.

Cục phó Cục Nông trường Quân đội Võ Bẩm (năm 1958).

Cục phó Cục Nông trường Quân đội Võ Bẩm (năm 1958).

Càng trưởng thành, tôi càng thấy ba tôi thực sự là một trí thức, mà kiến thức ông có được chủ yếu là nhờ luôn luôn học hỏi. Ông chưa bao giờ tự coi mình là trí thức. Trong lý lịch, ông tự khai trình độ văn hóa lớp 6. Khi coi ba tôi là một trí thức, tôi phải tra từ điển về từ “trí thức”. Định nghĩa: “Trí thức là người có kiến thức sâu xa về một hay nhiều lĩnh vực hơn sự hiểu biết của mặt bằng chung của xã hội vào từng thời kỳ”. Như vậy, không phải có bằng cấp (ví dụ có bằng đại học trở lên) mới gọi là trí thức, mà trí thức chỉ cần có hiểu biết uyên thâm hơn người và có văn hóa thể hiện sự hiểu biết.

Kiến thức của ba tôi, chủ yếu về xã hội, về đấu tranh cách mạng. Ông học ở đâu? Về đạo đức lễ nghĩa và cách ứng xử tử tế ở đời, có lẽ do bà nội tôi dạy bảo, vì bà xuất thân từ gia đình gia giáo. Còn kiến thức đấu tranh cách mạng là từ phong trào, từ tù ngục và hai năm học chính trị ở Trung Quốc. Về quân sự, ba tôi cũng không được học qua trường sĩ quan nào, chỉ được học qua bạn tù trong thời gian ở Nhà đày Buôn Ma Thuột, nhưng ông đã làm chính ủy, đã làm chỉ huy cấp chiến dịch và hiểu biết sâu xa về khoa học quân sự.

Thật ra, tôi ít được sống với ba tôi. Khi tôi ra đời năm 1943, ông đang bị an trí ở Ba Tơ. Khi tôi được 2 tuổi, ông đã đi bộ đội. Hơn 10 tuổi, tôi tập kết ra Bắc và lớn lên ở các trường nội trú Học sinh miền Nam, ở ký túc xá trường đại học, rồi sơ tán, rồi nhập ngũ và chuyển vào TP.HCM định cư cho tới nay.

 Có lẽ thời gian được ở với ba tôi lâu nhất mà tôi nhớ được là mấy tháng ông nghỉ chữa bệnh ở quê cuối năm 1947 đầu năm 1948, và sau này là những dịp nghỉ hè, nghỉ Tết. Năm chị em chúng tôi đều cùng hoàn cảnh. Trong điều kiện đất nước chiến tranh, một cách tự nhiên, khi có dịp thì ba tôi đều chỉ bảo hay nhắc nhở cho chúng tôi học tập. Ví dụ, tôi vẫn nhớ kỳ nghỉ hè lớp 7 (năm 1958) lúc đó ba tôi làm Cục phó Cục Nông trường Quân đội, ông cho tôi đi theo trên chiếc commanca đít vuông đến vùng phía Tây Nghệ An. Tôi được trải nghiệm về rừng núi Trường Sơn, về nông trường. Và qua câu chuyện ba tôi nói với với các chú bội đội miền Nam tập kết (nay là nông trường viên), tôi biết thêm nỗi niềm “ngày Bắc đêm Nam” của họ.

Nhờ vậy, khi học tập chính trị về đấu tranh thống nhất nước nhà, tôi càng hiểu thêm quyết tâm và ý chí của Đảng. Ba tôi đã dạy dỗ chúng tôi qua thư từ, qua các cuộc họp gia đình, qua các câu chuyện ông kể … Tôi không nhớ ba tôi đã nói khi nào, nhưng những câu như “Thà chịu cực, không chịu nhục”, “Phải tốt ngay ở những việc mình làm”… đã thành kim chỉ nam cho chúng tôi trong suốt cuộc đời.

Bây giờ, ngoài tuổi 80, nhìn lại chính mình, tôi thấy hành trình làm người của tôi có được chút ít thành tựu, cũng nhờ một phần không nhỏ từ tình thương, tấm gương và sự uốn nắn của ba tôi - Thiếu tướng Võ Bẩm./.

Link nội dung: https://nongnghiepmoitruong.vn/tri-thuc-nong-dan/ba-toi-nhan-lenh-mo-duong-truong-son-d749543.html